Nhiều giải pháp giúp kinh tế Việt Nam tăng trưởng triển vọng năm 2022
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng khoảng 6,6% năm 2022. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức: Tổng cầu nền kinh tế còn thấp, tăng trưởng "nóng" trên thị trường BĐS và chứng khoán.
Dự báo kinh tế Việt Nam mà theo IMF (Quỹ Tiền tệ quốc tế) đưa ra, sẽ tăng trưởng khoảng 6,6% trong năm nay. Tuy nhiên, để có thể đạt mục tiêu này, nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức như: tổng cầu của nền kinh tế còn thấp, nhiều rủi ro đến từ sự tăng trưởng "nóng" trên thị trường bất động sản và chứng khoán.
Thông tin trên được đưa ra trong Hội thảo Kinh tế Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm 2022 với chủ đề "Ổn định kinh tế vĩ mô và lành mạnh tài chính trong bối cảnh đại dịch Covid-19" diễn ra sáng 25/4.
Theo các chuyên gia, việc đảm bảo lành mạnh thị trường tài chính như hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán, bảo hiểm là việc làm cấp thiết để tránh bất ổn cho nền kinh tế.
Cùng với đó, nhiều đề xuất phát triển kinh tế đã được nhóm nghiên cứu ấn phẩm "Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên 2021" chỉ ra như gia tăng hỗ trợ tài khóa mạnh mẽ hơn (lên khoảng 5-6% GDP) trong bối cảnh đặc biệt hiện nay để hỗ trợ nền kinh tế trong ít nhất 2-3 năm tới; chính sách lãi suất nên tập trung vào việc cắt giảm lãi suất cho vay hơn là lãi suất huy động; hướng chuyển các dòng vốn tín dụng vào các khu vực sản xuất và nền kinh tế thực, kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng "nóng" ở các thị trường tài sản.
Trong năm 2022, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ hồi phục, trong đó có hoạt động xuất - nhập khẩu. Hiện tại, toàn bộ hoạt động kinh tế trong nước đã trở lại bình thường. Các hoạt động thương mại toàn cầu cũng được kết nối. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 sẽ có ba kịch bản: kịch bản cơ sở, kịch bản cao và kịch bản thấp với mức tăng trưởng kinh tế được dự báo lần lượt là 5,8%, 6,7% và 4,5%.
Trong đó, kịch bản cơ sở được cho là sẽ có nhiều khả năng xảy ra nhất trong bối cảnh dịch bệnh được kiểm soát và kinh tế thế giới hồi phục dần dần. Với kịch bản này, các hoạt động kinh tế - xã hội đi vào ổn định, trạng thái bình thường mới được thiết lập, không diễn ra các đợt giãn cách xã hội dài ngày như trước, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi phát triển sản xuất hiệu quả, các đối tác kinh tế chiến lược của Việt Nam đạt mức tăng trưởng dương.
Với kịch bản thứ hai, để đạt được mức tăng trưởng như dự báo đòi hỏi dịch bệnh phải được khống chế và kinh tế thế giới hồi phục hoàn toàn. Kịch bản thứ ba xảy ra khi dịch bệnh không được kiểm soát và diễn biến phức tạp trên toàn cầu với sự xuất hiện của nhiều chủng virus mới khiến cho việc khôi phục kinh tế của các quốc gia trên thế giới bị đình trệ. Bên cạnh đó, các gói hỗ trợ của Nhà nước cũng sẽ có độ trễ nhất định khi thực hiện.
Mặt khác, tính đến đầu tháng I/2022, Việt Nam có khoảng 70 triệu người đạt 2 mũi vắc-xin và 16 triệu người tiêm 1 mũi vắc-xin. Như vậy, theo nhóm tác giả, tiến độ bao phủ vắc-xin trong cộng đồng là một yếu tố quan trọng quyết định mức độ khôi phục kinh tế trong nước bởi lẽ chiến lược “không Covid” không còn phù hợp trong bối cảnh hiện tại. Ngoài ra, nhóm tác giả cho rằng, động lực để tăng trưởng kinh tế trong năm 2022 bao gồm các nhân tố:
Chính sách hỗ trợ của Chính phủ, khả năng thu hút nhà đầu tư FDI, tăng trưởng xuất khẩu và sự kích cầu tiêu dùng nội địa. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế như: Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2022 được dự báo trong khoảng 6,5- 6,6%.
Nhiều chuyên gia cho rằng, mức dự báo này là hợp lý khi Việt Nam vừa trở lại trạng thái “bình thường mới” chỉ trong 2 tháng cuối năm 2021, việc tái mở cửa hoạt động du lịch đối với du khách quốc tế diễn ra chậm. Đồng thời, giá năng lượng tăng cao trong những ngày vừa qua do tình hình chiến sự căng thẳng giữa Nga -Ukraina cũng là một rào cản đối với kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
Theo dự báo, tăng trưởng kinh tế thế giới giảm xuống trong khi lạm phát gia tăng. Các chuyên gia chỉ ra, còn nhiều thách thức từ bên ngoài và nội tại trong nước ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam.
Nghiên cứu của trường Đại học Kinh tế Quốc dân (KTQD) dự báo, triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2022 có thể đứng trước nhiều thách thức lớn.
Thứ nhất, đại dịch Covid-19 với những biến chủng mới lây nhiễm mạnh, bất ổn chính trị thế giới leo thang cùng giá dầu tăng mạnh có thể khiến con đường hồi phục toàn cầu và của các nước bạn hàng lớn của Việt Nam như Mỹ, EU, Trung Quốc bị đe dọa; theo đó ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư tại Việt Nam.
Thứ hai, việc chính phủ và ngân hàng trung ương của các quốc gia lớn, đặc biệt là Mỹ, có động thái thắt chặt tiền tệ do lo ngại lạm phát tác động đến kinh tế, tài chính thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Đối với Việt Nam, dư địa các chính sách tài khóa và tiền tệ để hỗ trợ hồi phục kinh tế sẽ bị thu hẹp hơn.
Thứ ba, những rủi ro bất ổn vẫn còn hiện hữu như tăng trưởng "nóng" trên thị trường bất động sản và chứng khoán. Cụ thể, dòng vốn tín dụng chưa đi vào khu vực sản xuất và đổ vào thị trường tài sản gây rủi ro tài chính; hệ thống ngân hàng còn nhiều chỉ tiêu chưa lành mạnh như chất lượng tín dụng giảm và nợ xấu gia tăng; sức ép lạm phát gia tăng....
PGS.TS Tô Trung Thành - đại diện nhóm nghiên cứu trường Đại học KTQD phân tích: "Những rủi ro này có thể tác động ngược trở lại đến khu vực kinh tế thực, ảnh hưởng đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng".
Cùng với đó PGS.TS Thành cho hay: Báo cáo đánh giá, diễn biến giá dầu tăng cao trong những tháng đầu năm 2022 đặt thêm những thách thức rất lớn đến kinh tế. Cho đến ngày 11/3/2022, trung bình giá xăng dầu tăng 41% so với năm 2020 đã ảnh hưởng trực tiếp đến giá tiêu dùng tăng 0,5%; chỉ số giá sản xuất tăng 2,2%".
Mặt khác, xung đột giữa Nga- Ukraine làm tăng giá thực phẩm dầu thô, sắt gạo…, sự sụt giảm về nhu cầu và chuỗi cung ứng đứt gãy sẽ ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam.
Đánh giá cao chương trình hồi phục và phát triển kinh tế là rất quan trọng, ông Francois Painchaud cho rằng, chính sách tài khoá (giảm thuế, tăng đầu tư công) đóng vai trò quan trọng vừa hỗ trợ sự phục hồi tổng cầu vừa thúc đẩy tiêu dùng thông qua các chính sách giảm thuế.
“Hiện tại chính sách tiền tệ đang thể hiện khả năng hỗ trợ nhất định tuy nhiên bị giới hạn trong tương lai, rõ ràng NHNN cần thắt chặt hơn chính sách tiền tệ so với mục tiêu ban đầu. Do đó, chính sách tài khoá phải đi đầu hỗ trợ với chính sách tiền tệ trong việc hỗ trợ các hộ gia đình, DN tương lai”, ông Francois Painchaud khuyến nghị.
Trong ngắn hạn, phát triển phục hồi, trung hạn là tăng trưởng bền vững và bao trùm với huy động, nuôi dưỡng về nguồn thu, thuế… củng cố tài khoá cũng như sự linh hoạt của chính sách tiền tệ.
TS. Nguyễn Đình Cung cho rằng, tăng trưởng quý I đạt 5,3%, để đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,5%, các quý còn lại chắc chắn phải tăng trưởng trên 6%. Có thể sử dụng các gói phục hồi kinh tế, nhưng ông Cung đặc biệt nhấn mạnh ở đầu tư công. Hiện nay, giải ngân nguồn vốn này vẫn chậm. Tuy Thủ tướng Chính phủ yêu cầu đẩy nhanh giải ngân đầu tư công, và đã có những ý kiến đề xuất thay đổi về biện pháp giải phóng mặt bằng, tuy nhiên vấn đề nằm ở từng dự án chứ không hẳn là vấn đề thể chế.
Cùng với đầu tư công, theo ông Nguyễn Đình Cung, những động lực chính cho tăng trưởng vẫn là xuất khẩu và thúc đẩy tổng cầu. Tổng cầu nền kinh tế có tăng lên nhưng chưa đủ mức cao như những năm trước, đó là lý do giải thích lạm phát cao nhưng chỉ số CPI vẫn thấp. Về xuất khẩu, tuy các yếu tố bên ngoài tác động không thuận, nhưng TS. Nguyễn Đình Cung tin rằng xuất khẩu năm nay vẫn đạt tốc độ tốt vì những thị trường chủ yếu của Việt Nam vẫn có nhu cầu lớn.
TS. Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương nhận định, trong điều kiện dư địa chính sách dần thu hẹp, các chính sách cần hướng nguồn lực ưu tiên đến khu vực DN, tạo điều kiện cho khu vực DN phục hồi và phát triển trong đại dịch; đặc biệt là những DN có ảnh hưởng lan tỏa lớn đến nền kinh tế. Về dài hạn, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế đặt ra mạnh mẽ để chủ động thích ứng và có những bước đi phù hợp; đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh lương thực… trong bối cảnh mới.
TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển thương hiệu và cạnh tranh đồng tình với Báo cáo Kinh tế Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm 2022 của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, ông nhấn mạnh, năm 2022 là năm có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng thực hiện các mục tiêu của các Kế hoạch 5 năm 2021-2025 và các chủ trương, chính sách lớn đã được thông qua trong năm 2021. Ông Thành cũng bày tỏ tin tưởng vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 6-6,5% năm 2022 theo dự báo.
Khẳng định Việt Nam đang nỗ lực thực hiện tốt các giải pháp giúp kiểm soát dịch bệnh; đời sống, kinh tế - xã hội dần ổn định, song TS. Thành lưu ý, thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ vẫn đứng trước những khó khăn do đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, khó lường, cộng thêm sự biến động của tình hình thế giới, đặc biệt là cuộc xung đột Nga - Ukraina và xung đột chính trị giữa các cường quốc…
Từ đó, có thể dẫn tới đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, nguy cơ khủng hoảng năng lượng hiện hữu, giá nguyên liệu và giá nhiều loại hàng hóa cơ bản tăng cao càng làm ảnh hưởng lớn đến các hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế thế giới dự báo phát triển không đồng đều, thiếu vững chắc.
Trong khi đó, thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước, nổi cộm là vấn đề tài chính cũng còn nhiều điều đáng bàn. Mới đây nhất đó là thị trường chứng khoán, trái phiếu DN đã chứng kiến nhiều “lùm xùm”. “Đây thực sự là thách thức rất lớn đối với Việt Nam, nhất là trong bối cảnh cả nước vừa phải chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh”, ông Thành nhấn mạnh.
Vì vậy, trong dài hạn, cần cân đối giữa khả năng chống chịu, ổn định kinh tế vĩ mô với tạo điều kiện hỗ trợ, phát triển của kinh tế nói chung. Về ngắn hạn, làm sao xử lý được rủi ro đang hiện hữu nhưng vẫn để thị trường này vận hành và phát huy tiềm năng.
Phân tích về giải pháp kiềm chế lạm phát, chuyên gia kinh tế, TS. Vũ Đình Ánh cho rằng, mức độ lạm phát bao nhiêu sẽ phụ thuộc rất nhiều vào 2 nhóm vấn đề. Nhóm thứ nhất là chính sách nới lỏng cả về tài khóa, ngân sách cũng như chính sách tiền tệ sẽ điều hành đến mức độ nào, mở đến mức độ nào và kiểm soát hiệu quả ra sao. Nhóm thứ 2 là vấn đề “nhập khẩu lạm phát”, tức là lạm phát từ bên ngoài tác động vào Việt Nam.
TS. Vũ Đình Ánh đơn cử: “Tuy nhiên, nếu chúng ta có biện pháp kiểm soát tốt, hạn chế bớt những tác động đơn cử như việc điều hành thuế nhập khẩu đối với hàng nhập khẩu một cách linh hoạt, hay điều hành xuất khẩu phù hợp sẽ giúp kiềm chế được lạm phát”.
Phát triển công nghiệp và những tác động lên môi trường
Theo các báo cáo Niên giám thống kê năm 2015-2020, công nghiệp là lĩnh vực có đóng góp quan trọng, chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu nền kinh tế. Giai đoạn 2016-2020, sản xuất công nghiệp chiếm hơn 30% GDP của cả nước, liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao, bình quân 8,2%/năm. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định là điểm sáng của khu vực công nghiệp với mức tăng bình quân giai đoạn 2016-2020 là 10,6%/năm. Cơ cấu các ngành công nghiệp có sự chuyển biến tích cực, tăng tỷ trọng của công nghiệp chế biến, chế tạo và giảm tỷ trọng của ngành khai khoáng. Một số ngành công nghiệp đã có bước phát triển mạnh mẽ, nhất là các ngành điện tử, dệt may, da giày, chế biến thực phẩm…
Nhiều doanh nghiệp, tập đoàn công nghiệp tư nhân hình thành và phát triển trong nước có tiềm lực tốt hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, lắp ráp ô tô, chế biến thực phẩm, sắt thép, kim khí.
Tham khảo các chỉ số sản xuất công nghiệp theo ngành giai đoạn 2015-2020 trong Hình 1 dưới đây.
Hiện nay, mặc dù số lượng các doanh nghiệp có trình độ công nghệ cao ngày càng tăng, tuy nhiên, vẫn còn khoảng cách khá xa so với một số quốc gia khác trong khu vực. Do vậy, để sản xuất các mặt hàng cần tiêu thụ nhiều nguyên liệu và năng lượng hơn, phát sinh nhiều chất thải hơn, gây sức ép đối với môi trường.
Trong khai thác khoáng sản, trừ một số loại khoáng sản có tài nguyên, trữ lượng lớn, phù hợp với khai thác quy mô công nghiệp như: dầu khí, than, bôxít, titan, apatit, đất hiếm, đá hoa trắng..., phần lớn các loại khoáng sản còn lại có quy mô trữ lượng thuộc loại vừa và nhỏ, phân tán, điều kiện khai thác phức tạp, không phù hợp với đầu tư quy mô lớn, hiện đại. Bên cạnh đó, việc quá chú trọng đến sản lượng khai thác, chưa quan tâm nhiều đến sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại... đã làm lãng phí tài nguyên và gia tăng ô nhiễm môi trường.
Tham khảo số lượng khu công nghiệp đi vào hoạt động giai đoạn 2015-2020 theo báo cáo từ Niên giám thống kê giai đoạn 2015-2020.
Hoạt động kiểm soát, giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại các KCN, khu chế xuất đã có nhiều chuyển biến tích cực. Mặc dù vậy, nhiều dự án, cơ sở hiện đang đầu tư, vận hành tại các KCN có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường như: luyện kim, khai thác khoáng sản, phá dỡ tàu biển, sản xuất giấy, bột giấy, dệt nhuộm, thuộc da, lọc hoá dầu, nhiệt điện, sản xuất thép, hóa chất, phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật... Đây là vấn đề thách thức lớn đối với công tác kiểm soát nguồn thải gây ô nhiễm môi trường.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do cách thức tổ chức quản lý sản xuất của các làng nghề hiện nay chưa thật sự hiệu quả, đa số làng nghề sản xuất với hình thức nhỏ lẻ, thiếu sự hỗ trợ về vốn, công nghệ, cũng như thông tin thị trường…
Phát triển nông nghiệp và những tác động lên môi trường
Quá trình sản xuất nông nghiệp đã phát sinh sức ép lên môi trường từ việc sử dụng hóa chất trong hoạt động trồng trọt, thức ăn dư thừa trong chăn nuôi…
Báo cáo công tác BVMT năm 2019 của Bộ NN&PTNT cho thấy, lĩnh vực trồng trọt là ngành chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Ngành trồng trọt dần chuyển theo hướng chất lượng cao, ứng dụng công nghệ sinh học, cơ giới hóa… đặc biệt là việc áp dụng các giống cây trồng mới với sản lượng và năng suất cao, góp phần thay đổi cơ cấu cây trồng.
Phát triển du lich, dịch vụ và những tác động lên môi trường
Đối với ngành du lịch, sức ép lớn nhất đến môi trường là phát sinh chất thải rắn và nước thải sinh hoạt. Khối lượng chất thải rắn phát sinh từ khách du lịch có xu hướng gia tăng trong giai đoạn này. Phần lớn các điểm du lịch đều có các thiết bị, hệ thống thu gom chất thải.
Tuy nhiên, do đặc thù du lịch ở nước ta có tính chu kỳ mùa (du lịch biển tập trung vào mùa hè, du lịch văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng thường tập trung vào mùa xuân), đặc biệt là loại hình du lịch văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng, các điểm di tích thường được xây dựng từ rất lâu, vì vậy, hầu hết tại các điểm di tích lịch sử, văn hóa chưa được đầu tư đồng bộ hệ thống thu gom, xử lý chất thải. Mặt khác, thời gian du khách đến thường tập trung vào một thời điểm nhất định, dẫn đến tình trạng quá tải hệ thống thu gom, xử lý chất thải, gây ô nhiễm môi trường cục bộ.
Đưa ra giải pháp để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, báo cáo từ các chuyên gia trường Đại học Kinh tế Quốc dân khuyến nghị:
Thứ nhất, Chính phủ cần quán triệt ba quan điểm cơ bản khi đưa ra các chính sách. Đầu tiên, các chính sách cần tập trung hướng đến làm thế nào để hồi phục và phát triển nền kinh tế một cách bền vững trong bối cảnh "sống chung với Covid-19".
Thứ hai, đảm bảo cân bằng bên trong của nền kinh tế thì sản lượng cần được duy trì gần mức tiềm năng; cần thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ hướng về tổng cầu trong ngắn hạn để đẩy nền kinh tế quay trở lại vị trí tiềm năng.
Cuối cùng, dư địa chính sách dần thu hẹp, các chính sách cần hướng nguồn lực ưu tiên đến khu vực doanh nghiệp, tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp phục hồivà phát triển trong đại dịch; đặc biệt là những doanh nghiệp có ảnh hưởng lan tỏa lớn đến nền kinh tế.
Nội dung: Bùi Hằng
Đồ họa: Hoàng Việt