Tham vọng đưa ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu
Ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã có hàng trăm doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng cho các tập đoàn lớn trên thế giới. Tuy vậy, số đông doanh nghiệp còn lại vẫn đang phải đối mặt với những khó khăn về vốn, năng lực sản xuất.
Doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn
Những năm trở lại đây, ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã có hàng trăm doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng cho các tập đoàn lớn trên thế giới. Tuy vậy, số đông doanh nghiệp còn lại vẫn đang phải đối mặt với những khó khăn về vốn, năng lực sản xuất. Cụ thể, số liệu báo cáo từ Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) cho thấy, mới chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng sản xuất cho các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam. Ngoài ngành xe máy Việt Nam đã nội địa hóa được với tỷ lệ cao, thì các ngành điện tử, ô tô, vẫn chưa nội địa hóa được bao nhiêu.
Đơn cử như ngành điện tử, Việt Nam vẫn đang nhập khẩu hầu hết linh kiện với 90%, linh kiện cơ bản tới 97%, linh kiện chuyên dụng 92%, linh kiện cơ khí 82%, linh kiện cao su 87%...
Với ngành ô tô, do sản lượng thấp chỉ vài trăm nghìn xe/năm, nên Việt Nam có rất ít doanh nghiệp cung ứng linh kiện cấp 1 cho đối tác nước ngoài với hơn 60 doanh nghiệp; cung ứng cấp 2 có khoảng 145 doanh nghiệp. Nhập khẩu sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ngành này đang chiếm tới hơn 70% linh kiện.
Lý giải nguyên nhân, bà Trương Thị Chí Bình, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam cho hay, liên kết với doanh nghiệp quốc tế là con đường nhanh nhất để doanh nghiệp nội địa tham gia cung ứng toàn cầu, nhưng sợi dây liên kết này còn rất hạn chế và yếu, nhất là khi đại dịch Covid-19 nổ ra, cùng với đó là xung đột chính trị trên thế giới khiến cho việc liên kết càng trở nên khó khăn hơn.
Thực tế, các đơn vị quốc tế, tư vấn hỗ trợ liên kết doanh nghiệp cho rằng, doanh nghiệp Việt Nam phải có đủ năng lực. Trong khi đó, cả chất lượng, giá cả, thời gian giao hàng của doanh nghiệp Việt đều chưa đáp ứng được. "Doanh nghiệp phải đảm bảo giá cạnh tranh, minh bạch, linh hoạt, thời gian giao hàng đáp ứng yêu cầu và có khả năng quản lý chuỗi cung ứng. Nhưng ngay cả khi chúng ta đáp ứng chất lượng thì cạnh tranh về giá vẫn là vấn đề khó nhất với doanh nghiệp Việt Nam bởi đang cao hơn ít nhất 20% so với giá các nhà cung ứng hiện có của họ", bà Bình cho hay.
Còn với các tập đoàn sản xuất lớn, khi vào Việt Nam họ đều đưa theo, hoặc đã có nhà cung ứng trên toàn cầu. Những nhà cung ứng này có kinh nghiệm, đã khấu hao thiết bị máy móc và có mạng lưới sản xuất tiên tiến với chi phí thấp, sản lượng lớn. Trong khi đó, doanh nghiệp nội địa quản trị yếu, sản xuất chưa tinh gọn dẫn tới khả năng cạnh tranh về giá rất thấp.
Tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu
Chính phủ xác định mục tiêu đặt ra đến năm 2030, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa và giá trị xuất khẩu chiếm 25% giá trị sản xuất công nghiệp; phấn đấu đạt khoảng 2.000 doanh nghiệp.
Để phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao năng lực doanh nghiệp Việt Nam, cần có các chính sách hỗ trợ giảm chi phí, tiếp cận tín dụng tốt hơn, lãi vay ưu đãi để doanh nghiệp đầu tư cho sản xuất. Cùng đó là các giải pháp về đào tạo, nâng cao quản trị.... Có nhiều doanh nghiệp đã cung ứng cấp 1 cho sản xuất xe máy, nhưng muốn đầu tư mới để cung ứng cho ô tô vẫn đang gặp cản trở về vốn lớn, tài sản thế chấp không còn sau 2 năm chống đỡ với dịch Covid-19.
Tiếp đó, cần tập trung nâng cao năng lực khoa học, công nghệ cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển nhằm tạo sự bứt phá về hạ tầng công nghệ, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ; tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế trong nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, mua bán, chuyển giao các sản phẩm khoa học, công nghệ; đẩy mạnh thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu khoa học, công nghệ; tăng cường cơ chế hợp tác công tư trong việc triển khai các dự án đổi mới công nghệ, nghiên cứu và phát triển.
Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo thông qua các chương trình, kế hoạch quốc gia về nâng cao tay nghề, thúc đẩy liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. Gắn kết giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động, phát triển hệ thống quản lý và bảo đảm chất lượng giáo dục nghề nghiệp, triển khai mô hình quản lý theo hướng hiện đại, tinh gọn, chuyên nghiệp, áp dụng theo các tiêu chuẩn quốc tế và ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, phát triển hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia, đặc biệt đối với các kỹ năng nghề quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.
Ngoài ra, các bộ, ngành cũng cần sớm đưa các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong nước và khuyến khích các công ty đa quốc gia, công ty FDI thực hiện nội địa hóa thông qua các chính sách khuyến khích về thuế, lao động, nghiên cứu phát triển; tạo thuận lợi đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ, liên kết giữa doanh nghiệp công nghiệp chế tạo Việt Nam với công ty nước ngoài.
Thanh Tùng