Khủng hoảng nợ công trên thế giới, bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Các cuộc khủng hoảng nợ/khủng hoảng tài chính luôn gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế toàn cầu một khi chúng xảy ra, bất kể cuộc khủng hoảng bắt đầu và lan rộng từ đâu.
Cuộc khủng hoảng nợ ở châu Á (1997-1998)
Cuộc khủng hoảng nợ ở châu Á trong giai đoạn 1997-1998 bắt nguồn và bùng nổ ở Thái Lan (vào tháng 7 năm 1997), sau đó lan rộng ra phần còn lại của Đông Nam Á và các nước khác trong khu vực châu Á. Vào tháng 2/1998, một sự phá giá nghiêm trọng tới gần 50% giá trị so với đồng đô la Mỹ của đồng Baht Thái Lan và đồng Won của Hàn Quốc đã được báo cáo so với mức giảm 3/4 của đồng Rupiah Indonesia vào thời điểm đó.
Với tốc độ tăng trưởng như vậy, nó trở thành một cuộc khủng hoảng chính thức. Cuộc khủng hoảng nợ này đã đẩy hàng triệu người cả ở tầng lớp nghèo và trung lưu vào tình thế bị đe dọa bởi nguy cơ thất nghiệp trong khi giá nhập khẩu tăng. Kết quả là sản lượng và mức sống ở các nước xảy ra khủng hoảng đã giảm mạnh. Châu Á từng được công nhận là một khu vực tăng trưởng thần kỳ khi ghi nhận một số tốc độ tăng trưởng kinh tế nổi bật nhất được đo bằng GDP, từ 6-9% mỗi năm ở các quốc gia như:
Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Hồng Kông và Hàn Quốc trong thập kỷ trước. Tuy nhiên, nó đã ghi nhận mức mất hơn 70% trên thị trường chứng khoán trong nước cùng với sự sụt giá tương tự của đồng tiền so với đô la Mỹ được ghi nhận vào tháng 1/1998. Sau đó, các nước châu Á phải nhờ đến sự trợ giúp về mặt tài chính từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Phương Tây gọi đó là cái chết của chủ nghĩa tư bản nhà nước châu Á và giảm phát nợ do hệ thống điều tiết không phù hợp của các nước tạo ra.
Cuộc khủng hoảng nợ ở châu Âu (2009-2012)
Voss (2011) đã thu thập các ý kiến khác nhau và kết luận rằng, ngày bắt đầu cuộc khủng hoảng nợ của EU chủ yếu được thống nhất là vào ngày 5/11/2009. Khi đó, thâm hụt ngân sách của Hy Lạp là 12,7% GDP đã được tiết lộ; tỷ lệ đó thậm chí còn cao hơn gấp đôi tỷ lệ được công bố trước đó.
Tuy nhiên, không phải Hy Lạp mà là những người tham gia và cơ cấu điều hành các thể chế của EU mới là nguồn gốc thực sự của cuộc khủng hoảng này. Parrott (2015) cho rằng, sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng nợ châu Âu là ở các nước có mức tiêu dùng cao như:
Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ireland...; sự sẵn có của khoản tín dụng được sử dụng chủ yếu vào việc xây dựng các hệ thống phúc lợi xã hội hào phóng và đầu tư vào lĩnh vực xây dựng, nhưng cho các lĩnh vực nghiên cứu và phát triển hiệu quả khác như khoản tín dụng được xếp hạng hàng đầu của Đức. Lẽ đương nhiên là mức tiêu thụ thặng dư không bền vững đó được đóng góp bởi sự khuyến khích của các quốc gia khác vì nhu cầu sẽ tăng lên để xây dựng sự tăng trưởng nền kinh tế của các quốc gia này.
Theo dự báo của IMF, nợ khu vực tăng 2,844 tỷ Euro từ 5,870 lên 8,714 tỷ Euro trong khi GDP tăng 1,119 tỷ Euro từ 8,568 tỷ Euro lên 9,687 tỷ Euro trong giai đoạn 2006 – 2012 (Voss, 2011). Điều đó có nghĩa là mức nợ ước tính tăng nhanh hơn 2,5 lần so với mức GDP.
Trên thực tế, 13 trong số 17 quốc gia thuộc Liên minh châu Âu có mức nợ vượt mức tối đa 60%, bao gồm các nền kinh tế tiên tiến lớn như: Tây Ban Nha với 70,2%, Đức với 81,9%, Pháp với 89,4% và Ý cao nhất với 121,4%, theo báo cáo của hội viên CFA Voss (2011) và được đề cập lại trong nghiên cứu của Dong vào năm 2014.
Do đó, cuộc khủng hoảng nợ Chính phủ ở châu Âu này không chỉ là cuộc khủng hoảng ở một quốc gia mà đã lan rộng ra châu Âu và các khu vực khác bao gồm cả châu Á. Tóm lại, cuộc khủng hoảng nợ này được coi là cuộc khủng hoảng của sự tăng trưởng thiếu bền vững của thâm hụt và nợ, cuộc khủng hoảng Chính phủ về số nợ lớn do các tổ chức tài chính EU nắm giữ, cũng như cuộc khủng hoảng suy giảm giá trị tài sản bất động sản.
Nguyên nhân gây ra khủng hoảng nợ tại một số quốc gia
Cuộc khủng hoảng nợ ở Thái Lan, như Lauridsen (1998) đã thảo luận, thứ nhất là do các khoản đầu tư quá mức và thiếu cẩn trọng được tài trợ chủ yếu từ các khoản vay nước ngoài.
Thứ hai, rủi ro về tỷ giá hối đoái cố định hiện tại đã đề cập ở trên cũng góp phần làm nảy sinh các cuộc khủng hoảng nợ. Ngoài ra, các khoản vay phân bổ sai, không sử dụng tài chính vay nợ với sự cân nhắc kỹ lưỡng về rủi ro hối đoái hay phòng ngừa rủi ro bất ổn tiền tệ là những nguyên nhân khác đã đẩy Thái Lan vào khủng hoảng.
Hàn Quốc, ngoài Thái Lan, là trung tâm của cuộc khủng hoảng nợ châu Á, nơi các tác động có ảnh hưởng bất lợi nhất. Nguyên nhân khiến đất nước rơi vào khủng hoảng nằm ở môi trường kinh tế vĩ mô và các vấn đề cơ cấu. Nó dẫn đến việc đầu tư quá mức vào khu vực doanh nghiệp hầu hết được tài trợ bởi các khoản nợ ngắn hạn; một cấu trúc tài chính rất dễ bị tổn thương, trong đó, Chính phủ Hàn Quốc đảm bảo các khoản vay, cả trong nước và nước ngoài, bảo đảm các tập đoàn khỏi rủi ro phá sản; và sự không phù hợp của các ngân hàng về tài sản và nợ nước ngoài.
Tác động tổng hợp của việc nới lỏng các quy định/chính sách/ kiểm soát kinh tế đã tạo ra sự mở rộng đầu tư nhanh chóng trong giai đoạn 1994-1996 mặc dù giảm lợi nhuận trong khu vực doanh nghiệp.
Những tác động tích lũy bao gồm suy thoái trong nước năm 1995. Cú sốc điều khoản thương mại năm 1996 cũng ảnh hưởng tiêu cực đến dòng tiền và tạo ra các vấn đề trong khu vực doanh nghiệp do sự sụp đổ của chuỗi chaebol (các tập đoàn) vào đầu năm 1997 (Cho, 1998 và Kim, 2006).
Indonesia và các quốc gia khác trong khu vực châu Á cũng có những lý do tương đối giống nhau và cũng chịu hiệu ứng domino trong cuộc khủng hoảng nợ châu Á.
Mặc dù là quốc gia phát triển nhanh nhất trong Liên minh châu Âu suốt những năm 2000, Hy Lạp là ví dụ điển hình nhất cho thuật ngữ “khủng hoảng nợ” và đây là quốc gia EU đầu tiên nhận được khoản hỗ trợ 110 tỷ EUR từ IMF vào tháng 5/2010 (Minescu, 2011). Căn nguyên của mọi vấn đề có thể bắt nguồn từ năm 2001 khi Hy Lạp chính thức trở thành thành viên của EU.
Sau đó, Chính phủ Hy Lạp, với sự giúp đỡ của Ngân hàng Goldman Sachs, đã làm sai lệch báo cáo của họ về thâm hụt ngân sách để lách các quy định về thâm hụt Maastricht của EU, trong đó quy định rằng, tổng nợ Chính phủ phải dưới 6% và tỷ lệ thâm hụt hàng năm của Chính phủ so với GDP phải thấp hơn 3%.
Trên thực tế, người Hy Lạp chưa bao giờ cố gắng đạt được giới hạn nợ đó, và kể từ năm 1999, thâm hụt của họ chưa bao giờ dưới 3%. Nợ công cao cộng với thâm hụt ngân sách là những mối lo ngại nghiêm trọng nhất của Hy Lạp. Vào thời điểm gia nhập Khu vực đồng tiền chung châu Âu, Hy Lạp đã sở hữu mức nợ công hơn 100% so với GDP (The Economist, 2010c). Quốc gia tiết kiệm thấp này đã “phụ thuộc quá nhiều vào chi tiêu tiêu dùng” và phụ thuộc nhiều vào dòng vốn nước ngoài.
Cuộc khủng hoảng nợ ở Hy Lạp được liệt kê ngắn gọn là “chi tiêu Chính phủ cao, thu ngân sách yếu, thực thi yếu kém các quy tắc của EU về nợ” (Nelson và cộng sự, 2010).
Sau cuộc khủng hoảng của Hy Lạp, cả Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha dường như là những nạn nhân tiềm năng của cuộc khủng hoảng nợ mặc dù mức nợ công dưới 66% của nước này không phải là tương đối cao so với các nước khác. Các vấn đề của Tây Ban Nha là các ngân hàng địa phương có số lượng lớn các khoản cho vay (323 tỷ EUR trị giá gần 1/3% GDP) và tình trạng phá sản nhà ở (The Economist, 2010b). Ngoài ra, mức thất nghiệp cao nhất trong các nền kinh tế tiên tiến chính đã tác động tiêu cực đến quốc gia này (Deutsche Bank, 2011).
The Economist (2008) cho rằng, lý do Iceland dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính là do nước này xây dựng “một ngôi nhà tài chính của những tấm thẻ”. Nền kinh tế nhỏ bé của Iceland bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự sụp đổ của hệ thống tài chính khổng lồ. Có tỷ lệ thất nghiệp thấp như Tây Ban Nha và thu nhập cá nhân cao hơn trung bình ở EU, số nợ khổng lồ ở Iceland được xây dựng từ các khoản đầu tư lớn vào lĩnh vực năng lượng xanh, dòng vốn đầu tư nước ngoài, ba khoản vay ngân hàng và hộ gia đình lớn nhất.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Claessens (2014) đã đưa ra các chính sách liên quan đến khủng hoảng nợ nhằm tránh khủng hoảng và giảm thiểu tác động của khủng hoảng dựa trên những bài học từ các cuộc khủng hoảng nợ trong quá khứ, do Reinhart và Rogoff trình bày.
Thứ nhất, kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng trong quá khứ cho thấy các cuộc khủng hoảng nhìn chung đã được quản lý tốt hơn là được các nhà hoạch định chính sách ngăn chặn. Và nó được cho là sẽ không bị thay đổi trong ngắn hạn.
Thứ hai, các nền kinh tế tiên tiến và các nước mới nổi không cho thấy kết quả rõ ràng về khả năng họ trải qua khủng hoảng, nếu có bất kỳ sự khác biệt đáng kể nào giữa chúng, Reinhart và Rogoff lập luận. Cụ thể, họ nhấn mạnh rằng, các nền kinh tế mới nổi đã trải qua cuộc khủng hoảng vào những năm 1990 trong khi các nước tiên tiến, ngoại trừ cuộc khủng hoảng năm 2009 gần đây nhất, đã tham gia vào nhiều cuộc khủng hoảng trước năm 1940.
Thứ ba, cả việc xác định và hiểu về nhiều loại nợ đều chưa đầy đủ, xét về phạm vi và độ sâu của các rủi ro và mức độ của chúng. Các nhà quan sát có xu hướng quên rằng, các khoản nợ trong nước và nợ nước ngoài không được tạo ra như nhau. Ngoài ra, nợ công và nợ tư nhân không giống nhau, và tổng nợ thường lớn hơn nhiều so với ước tính hiện tại. Cuối cùng, các Chính phủ, thay vì mặc định hoặc chính thức hóa các điều khoản trả nợ, các mô hình lặp lại sau khủng hoảng đã sử dụng những cách tinh vi để tái cấu trúc các khoản nợ của quốc gia.
Các kỹ thuật, một phần được gọi là “kìm hãm tài chính”, bao gồm việc giữ lãi suất thấp để giảm chi phí trả nợ và thanh lý giá trị thực của các khoản nợ Chính phủ. Ở đây, “cơ cấu lại nợ công và chuyển đổi nợ ngắn hạn có năng suất cao sang nợ dài hạn có lợi suất thấp” đã được các nền kinh tế tiên tiến khác nhau sử dụng rộng rãi.
Các kỹ thuật khác, theo nghiên cứu của Claessens và cộng sự (2014), bao gồm cho vay trực tiếp cho các Chính phủ thông qua việc thu hút ngạch tiết kiệm trong nước, ví dụ như quỹ hưu trí, các quy định về dòng vốn xuyên biên giới và mối quan hệ ngân hàng - Chính phủ chặt chẽ hơn. Kết quả cuối cùng là chuyển nguồn tiền trực tiếp đến các mục đích sử dụng của Chính phủ nhưng cho những người đi vay phi Chính phủ, với lãi suất thường thấp hơn thị trường.
Để nền kinh tế Việt Nam tránh khỏi những tiêu cực tác động từ cuộc khủng hoảng nợ công, chúng ta cần xem xét các yếu tố nội tại của nền kinh tế Việt Nam cũng như nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công ở EU và tác động hiện có của nó đối với Việt Nam như đã phân tích ở trên. Thế giới đang gánh chịu những cú sốc gây nhiều thiệt hại cả về người và của như đại dịch Covid-19 kéo dài dẫn đến suy giảm sức khỏe kinh tế hay xung đột chính trị làm ảnh hưởng giao dịch thương mại quốc tế và các vấn đề tăng giá xăng dầu, lạm phát, lãi suất…
Yêu cầu cấp thiết nhất để phòng ngừa xảy ra khủng hoảng nợ trong bối cảnh nhiều yếu tố tác động từ môi trường bên ngoài với mức độ rủi ro cao như vậy là một cơ chế quản lý hiệu quả của Chính phủ để kiểm soát các hoạt động tài chính và các luồng tài chính các nguồn.
Theo đó, chúng ta cần đặt ra những tiêu chuẩn và tuyệt đối tuân thủ để bảo đảm sự minh bạch của thông tin, duy trì hiệu quả giám sát cấp vĩ mô, đồng thời đảm bảo nhu cầu về phúc lợi xã hội; huy động và kết hợp các nguồn lực để phát triển đất nước một cách bền vững. Như vậy, vai trò của Nhà nước càng trở nên quan trọng để quản lý hợp lý và nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước. Trong dài hạn, cần chủ động giảm đầu tư nhà nước và khuyến khích đầu tư từ các nguồn ngoài ngân sách theo hướng chiếm tỷ trọng cao trong tổng đầu tư toàn xã hội.
Trong đó, Nhà nước nên mở rộng trọng tâm đầu tư đến kết cấu hạ tầng xã hội bên cạnh các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước nên tập trung vào các ngành công nghiệp trọng điểm của nền kinh tế quốc dân: cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công và những ngạch liên quan đến ổn định kinh tế vĩ mô. Cả doanh nghiệp công và tư nhân nên được định hướng tạm dừng các đề án đa dạng hóa hoạt động đầu tư kinh doanh và chỉ tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chính nhằm giảm thiểu rủi ro.
Cuối cùng là chúng ta cần xây dựng và duy trì sự ổn định hệ thống, ngăn ngừa các tác động phụ và “bẫy” nợ, đảm bảo hiệu suất thực tế ở cả doanh nghiệp nhà nước và ngành tài chính - ngân hàng, đặc biệt là trong xử lý các vấn đề như: mua lại và sáp nhập doanh nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp và phúc lợi xã hội.
Bùi Hằng