WB dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023 ở mức 4,7%
Đánh giá về triển vọng trong thời gian tới, báo cáo ghi nhận, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những rủi ro có thể gia tăng ở trong nước và từ phía bên ngoài.
Báo cáo cho thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chậm lại từ 8% năm 2022 xuống còn 3,7% trong nửa đầu năm 2023. Nền kinh tế Việt Nam dự kiến tăng trưởng 4,7% trong năm 2023 và sẽ phục hồi dần lên 5,5% vào năm 2024 và 6% vào năm 2025. Tuy nhiên sẽ có sự chững lại. Nhu cầu trong nước dự kiến vẫn là động lực tăng trưởng chính trong năm 2023. Tiêu dùng tư nhân sẽ vẫn đứng vững, với tốc độ tăng 6% so cùng kỳ năm 2022, tuy có giảm nhẹ xuống dưới mức tăng trước đạt dịch là 7% hồi năm 2019.
Về tổng thể, đầu tư sẽ đóng góp 1,8 điểm phần trăm cho tăng trưởng GDP. Đầu tư tư nhân dự kiến sẽ giảm nhẹ, với tốc độ tăng 4,3% so cùng kỳ năm 2022 và so với mức 8,2% hồi cùng kỳ năm 2019, do những bất định ở môi trường bên ngoài, đóng góp 1.2 điểm phần trăm cho tăng trưởng GDP. Đầu tư công dự kiến sẽ được đẩy mạnh, tăng 9,5% so cùng kỳ năm 2022, đóng góp 0,6 điểm phần trăm cho tăng trưởng; tuy nhiên, cũng chỉ bù đắp được phần nào cho tình hình đầu tư tư nhân đang giảm xuống.
Do thanh khoản được nới lỏng và Ngân hàng Nhà nước vừa tiếp tục ban hành hướng dẫn về tái cơ cấu thời hạn trả nợ; những hạn chế về nguồn tài chính dành cho các lĩnh vực bất động sản,xây dựng dự kiến cũng sẽ được khắc phục. Qua đó, hỗ trợ cho đầu tư tư nhân từng bước phục hồi từ năm 2024 trở đi.
Chỉ số CPI dự kiến tăng nhẹ từ mức bình quân 3,1% trong năm 2022 lên bình quân 3,5% trong năm 2023. Tác động giảm phát khi tăng trưởng chững lại và chính sách giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% được triển khai trong nửa cuối năm 2023 là đủ đề bù lại cho đợt tăng lương công chức 20,8%. Lạm phát CPI sẽ được bình ổn ở mức 3% trong năm 2024 và 2025 trên cơ sở kỳ vọng giá năng lượng và thương phẩm sẽ ổn định trong năm 2024.
Bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho biết, nền kinh tế Việt Nam đang gặp thách thức từ các yếu tố bên trong và bên ngoài. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Chính phủ có thể hỗ trợ tổng cầu thông qua đầu tư công hiệu quả, qua đó tạo việc làm và kích thích hoạt động kinh tế. Ngoài các biện pháp hỗ trợ ngắn hạn, Chính phủ không nên bỏ qua các cải cách thể chế cơ cấu - bao gồm cả trong lĩnh vực năng lượng và ngân hàng - vì những lĩnh vực này là điều bắt buộc đối với tăng trưởng dài hạn.
Báo cáo đề xuất một số lựa chọn chính sách để đưa nền kinh tế trở lại đúng quỹ đạo. Thực hiện hiệu quả ngân sách đầu tư công năm 2023 có thể kích thích tổng cầu và tăng trưởng kinh tế. Về xuất khẩu, báo cáo đề xuất đa dạng hóa các sản phẩm và điểm đến xuất khẩu để xây dựng khả năng phục hồi trung hạn trước các cú sốc bên ngoài. Đồng thời, chính sách tài khóa có thể đóng vai trò mạnh mẽ hơn trong việc khuyến khích thực hành và tiêu dùng xanh, góp phần xây dựng môi trường bền vững.
Đánh giá về triển vọng trong thời gian tới, báo cáo ghi nhận, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những rủi ro có thể gia tăng ở trong nước và từ phía bên ngoài. Nhìn từ bên ngoài thì tăng trưởng thấp hơn dự kiến ở các nền kinh tế phát triển và nhu cầu từ thị trường Trung Quốc có thể tiếp tục giảm đối với khu vực xuất khẩu của Việt Nam, với quy mô ước bằng khoảng 50% GDP.
Những bất định kéo dài trên thị trường tài chính toàn cầu có khả năng làm dấy lên căng thẳng trong khu vực ngân hàng trên toàn cầu, càng khiến cho các nhà đầu tư né tránh rủi ro và không khuyến khích đầu tư – bao gồm cả đầu tư vốn FDI vào Việt Nam. Chính sách tiền tệ thắt chặt mạnh mẽ hơn ở các nền kinh tế phát triển quy mô lớn nhằm chống lạm phát kéo dài có thể nới rộng chênh lệch lãi suất giữa thị trường trong nước và quốc tế. Điều này có thể gây áp lực về tỷ giá đối với đồng nội tệ.
Hơn nữa, thiên tai liên quan đến khí hậu có thể làm gia tăng rủi ro theo hướng không khả quan cho Việt Nam, bao gồm cả thông qua giá lương thực thực phẩm và nhiên liệu tăng lên. Nhìn từ trong nước, khu vực tài chính đang đối mặt với những rủi ro và nguy cơ dễ tổn thương ngày càng lớn, đòi hỏi phải theo dõi chặt chẽ và tiến hành đổi mới.
Mới đây, World Economics đã công bố bảng xếp hạng quy mô kinh tế của 155 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới dựa trên sức mua tương đương. Theo đó, World Economics đánh giá dựa trên bộ dữ liệu quốc gia chính thức do Ngân hàng Thế giới (World Bank) và IMF công bố.
Trong năm 2022, theo World Economics, 3 nền kinh tế lớn nhất thế giới gồm: Trung Quốc, Mỹ và Ấn Độ, với GDP (PPP) lần lượt là 31.559 tỷ USD, 23.149 tỷ USD và 15.875 tỷ USD
Với Việt Nam, GDP PPP năm 2022 là 1.535 tỷ USD, xếp thứ 23 trên thế giới. Với con số này, GDP theo PPP của Việt Nam năm 2022 lớn hơn một số nền kinh tế như Australia, Hà Lan, Bỉ, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Ireland....
Xét riêng trong khu vực ASEAN, năm 2022, GDP theo PPP của Việt Nam sẽ đứng thứ 3 trong khu vực, xếp sau hai nền kinh tế là Indonesia (4.811 tỷ USD) và Thái Lan (1.835 tỷ USD).
Đến năm 2030, World Economics dự báo, GDP theo PPP của Việt Nam sẽ tăng lên 2.848 tỷ USD, tăng 85,5% so với 2022. Lúc này, thứ hạng của Việt Nam sẽ tăng từ vị trí thứ 23 (2022) lên vị trí thứ 15 (2030), vượt qua hàng loạt nền kinh tế như Tây Ban Nha, Saudi Arabia, Canada, Ai Cập...
Xét riêng trong khu vực Đông Nam Á, GDP (PPP) của Việt Nam sẽ vượt Thái Lan để xếp thứ 2 trong khu vực vào năm 2030.
Hà Anh (T/H)