Trường đại học Khoa học Tự nhiên được cấp 4 bằng độc quyền sáng chế
Cục Sở hữu Trí tuệ Việt Nam cấp 4 bằng độc quyền sáng chế, 5 bằng độc quyền giải pháp hữu ích và chấp nhận hợp lệ 17 đơn đăng ký sở hữu trí tuệ cho nhà trường.
Chiều 13/11, Trường đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) thông tin cho biết đến thời điểm này của năm 2020, các nhà khoa học của Trường đã sở hữu bốn bằng độc quyền sáng chế, năm bằng độc quyền giải pháp hữu ích và có 17 đơn đăng ký sở hữu trí tuệ được chấp nhận hợp lệ. Đây là kết quả tốt nhất từ trước đến nay nhà trường đạt được về số lượng bằng độc quyền được cấp và số đơn đăng ký sở hữu trí tuệ được chấp nhận hợp lệ.
“Kết quả này cho thấy các nhà khoa học của Trường đại học Khoa học Tự nhiên không chỉ quan tâm đến nghiên cứu cơ bản mà ngày càng tập trung hơn đến các sản phẩm có định hướng ứng dụng” – đại diện Trường cho biết. Điều này cũng cho thấy Trường đang từng bước chuyển sang mô hình đại học định hướng đổi mới sáng tạo nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
4 bằng độc quyền sáng chế, 5 bằng độc quyền giải pháp hữu ích được cấp trong năm 2020 bao gồm:Sáng chế “Phương pháp chiết tách hợp chất (8'Z)-1,3-dihydroxy-5-[16'-(3",5"-dihydroxyphenyl)-8'-hexadexen-1'-yl] benzen từ cây bàn tay ma (Heliciopsis terminalis (Kurz) Sleumer (Proteaceae))” đề cập đến phương pháp chiết tách hợp chất này từ cây Bàn tay ma. Hợp chất này có các hoạt tính bảo vệ gan bao gồm tác dụng ức chế sự peroxyl hóa lipid màng tế bào, tác dụng bảo vệ tế bào gan HepG2 gây độc bởi CCl4, tác dụng ức chế sự sản sinh NO trên tế bào RAW264.7.
Đây là sáng chế của nhóm tác giả Phạm Hùng Việt, Phan Minh Giang, Dương Hồng Anh, Đỗ Thị Việt Hương, Vũ Minh Giang đến từ Trung tâm Nghiên cứu công nghệ Môi trường và Phát triển Bền vững (CETASD).
Sáng chế “Phương pháp ước lượng mật độ và tốc độ trung bình của các phương tiện cơ giới tham gia giao thông đường bộ” đề xuất phương pháp dùng để ước lượng mật độ và tốc độ trung bình của các phương tiện cơ giới tham gia giao thông đường bộ thông qua thiết bị đo đạc, xử lý thống kê số liệu thăm dò trường địa điện do các phương tiện phát ra tại khu vực cần quan sát. Dữ liệu thu được có thể được lưu trữ, truyền tải đến trung tâm quản lý, điều tiết giao thông để đánh giá mức độ ùn tắc giao thông tại điểm quan sát. Sáng chế của tác giả Trần Vĩnh Thắng, khoa Vật lý.
Sáng chế “Thấu kính hội tụ kết nối với sợi quang và thiết bị thu nhận ánh sáng mặt trời sử dụng thấu kính này” đề cập đến thấu kính hội tụ kết nối nhanh với sợi quang và thiết bị thu nhận ánh sáng mặt trời, sử dụng để hội tụ được ánh sáng mặt trời xuất phát từ mọi hướng và tại đầu ra của thiết bị ánh sáng có phương tương đối song song. Việc thực hiện hội tụ ánh sáng tại mọi hướng, không sử dụng bất kỳ chi tiết chuyển động nào, được thực hiện bằng cách sử dụng nhiều thấu kính hội tụ nhỏ xếp lại với nhau thành một mặt cong lồi. Sáng chế đến từ Trung tâm Nano và Năng lượng, Khoa Vật lý của nhóm tác giả Nguyễn Trần Thuật, Hoàng Chí Hiếu, Hồ Đức Quân, Nguyễn Quang Quân, Nguyễn Hoàng Hải.
Sáng chế “Quy trình chế tạo vật liệu làm giá thể di động cho bể lọc sinh học từ xơ mướp” đề xuất quy trình chế tạo vật liệu làm giá thể di động cho bể lọc sinh học từ xơ mướp. Quy trình này có giá thành rẻ, vật liệu thu được từ quy trình có thể được áp dụng làm giá thể di động tại các mô hình bể lọc sinh học có giá thể chuyển động MBBR mang lại hiệu quả tốt, thân thiện với môi trường. Sáng chế do nhóm tác giả Nguyễn Mạnh Khải, Phạm Thị Thúy, Đặng Thị Thanh Huyền, Khoa Môi trường thực hiện.
Giải pháp hữu ích “Quy trình sản xuất enzym catalaza từ gan bò” đề cập đến quy trình sản xuất chế phẩm enzym catalaza từ gan bò và chế phẩm chưa enzyme catalaza thu được từ quy trình này. Quy trình theo giải pháp hữu ích sử dụng kỹ thuật kết tủa phân đoạn theo nồng độ axeton và thẩm tách kết hợp sắc ký để loại bỏ tạp chất cho phép thu được enzym catalaza giữ được hoạt tính. Giải pháp của nhóm tác giả Đinh Nho Thái, Nguyễn Thị Hồng Loan, Phòng Thí nghiệm trọng điểm Công nghệ Enzym và Protein (KLEPT).
Giải pháp hữu ích “Cơ chế peptit đặc hiệu để xác định hoạt độ enzym proteaza HIV-1” đề cập đến cơ chất peptit đặc hiệu để xác định hoạt độ của proteaza, trong đó cơ chất này là đoạn peptit có trình tự bao gồm: Arg-Lys-Ile-Nle- Nph-Leu-Asp-Gly-Nle, trình tự này được nhận biết đặc hiệu bởi enzym proteaza HIV-1 tại vị trí Nle-Nph, hấp thụ cực đại tại bước sóng tử ngoại. Tác giả Nguyễn Thị Hồng Loan, Phan Tuấn Nghĩa, Phòng Thí nghiệm trọng điểm Công nghệ Enzym và Protein (KLEPT) thực hiện.
Tác giả Võ Thị Thương Lan từ Khoa Sinh học với Giải pháp hữu ích “Qui trình thực hiện phản ứng ARMS-PCR đa mồi để phát hiện đồng thời 4 loại đột biến ở các mã di truyền 17, 26, 41/42 và 95 của gen beta globin gây bệnh thiếu máu beta thalassemia” đề cập đến qui trình thực hiện ứng ARMS-PCR đa mồi để phát hiện 4 loại đột biến ở các mã di truyền 17, 26, 41/42 và 95 trên gen beta globin.
Giải pháp hữu ích “Quy trình sản xuất arabinoxylan từ cám gạo” đề cập đến quy trình sản xuất arabinoxylan có tác dụng tăng cường miễn dịch từ cám gạo của nhóm tác giả Nguyễn Thị Vân Anh, Phan Tuấn Nghĩa, Trần Thị Mỹ, Nguyễn Hòa Anh, Phòng Thí nghiệm trọng điểm Công nghệ Enzym và Protein (KLEPT).
Giải pháp hữu ích “Hệ thống cảnh báo sớm tai biến lũ quét sử dụng mạng lưới trạm khí tượng tự động chuyên dùng và hệ thống phần mềm GIS mã nguồn mở” cung cấp thông tin cảnh báo sớm và chi tiết về khả năng xảy ra lũ quét cho người dân trước 1 đến 6 ngày thông qua trang web, email, tin nhắn SMS nhằm tăng cường khả năng ứng phó, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do lũ quét gây ra tại các địa phương vùng núi như Hòa Bình, Hà Giang, Sơn La,... Giải pháp này của nhóm tác giả Nguyễn Ngọc Thạch, Phạm Xuân Cảnh, Bùi Quang Thành, Lê Hoàng Sơn, Nguyễn Quốc Huy, Khoa Địa lý.
Theo Tạp chí Sở hữu trí tuệ & Sáng tạo