Năm 2030, đặt mục tiêu triệu USD cho giá trị xuất khẩu trứng cá nước lạnh
Tổng cục Thủy sản đặt mục tiêu trong giai đoạn 2021-2030 sẽ khai thác, sử dụng hiệu quả tiềm năng mặt nước, nguồn nước để phát triển nuôi cá nước lạnh nhằm tạo sản phẩm có giá trị cao.
Thông tin từ Tổng cục Thủy sản - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, các loài cá nước lạnh như: Cá hồi, cá tầm… là đối tượng nuôi thủy sản có giá trị rất cao, nhất là trứng cá tầm rất được ưa chuộng trên thị trường thế giới.
Với những nỗ lực nhằm khai thác tiềm năng các thủy vực nước lạnh tại khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, hiện nay, cá nước lạnh đã được nhiều tỉnh xem như một trong những đối tượng nuôi quan trọng, góp phần vào khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương. Thống kê của Tổng cục Thủy sản cho thấy, cả nước có 25 tỉnh phát triển nuôi cá nước lạnh, trong đó, sản lượng cá nuôi nhiều nhất tại các tỉnh phía Bắc và Tây Nguyên, điển hình như: Lâm Đồng, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu,...
Mới đây ngày 8/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghề cá Việt Nam (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) phối hợp với UBND các tỉnh Lào Cai, Lâm Đồng tổ chức Hội nghị Tổng kết 15 năm phát triển cá nước lạnh và định hướng giai đoạn 2021 – 2030.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến |
Hội nghị có Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến và các vị lãnh đạo địa phương tham dự.
Theo đánh giá của Hội nghề cá Việt Nam, sau thử nghiệm thành công tiến tới phát triển nuôi quy mô từ năm 2006, năm 2007, cá nước lạnh của Việt Nam chủ yếu là cá tầm, cá hồi cho sản lượng ban đầu gần 100 tấn. Đến nay, sau 15 năm sản lượng cá nước lạnh toàn quốc đã đạt trên 3.700 tấn, tăng trưởng sản xuất trong giai đoạn 2007 - 2020 đạt 68,75%. Hiện, cá nước lạnh Việt Nam đã khẳng định được chỗ đứng ở thị trường nội địa. Cả nước đang có 25 tỉnh phát triển nghề cá nước lạnh, chủ yếu tập trung ở phía Bắc và Tây Nguyên.
Năm 2020, sản lượng trứng cá tầm đã qua chế biến của cả nước ước đạt 3.000 kg. Trong nước sản xuất được khoảng 4 triệu con giống, đáp ứng được 80% nhu cầu con giống của các cơ sở nuôi cá nước lạnh. Hiện tại, thức ăn sản xuất trong nước đã cung cấp được khoảng 90% cho cá tầm và 50% thức ăn cá hồi, giá bán thấp hơn khoảng 20% so với giá thức ăn nhập khẩu. Hiện nay, sản phẩm cá nước lạnh của Việt Nam chủ yếu tiêu thụ là cá tươi sống hoặc cấp đông mà chưa qua chế biến, thị trường tiêu thụ tại các thành phố lớn và khu du lịch…
Năm 2030, đặt mục tiêu triệu USD cho giá trị xuất khẩu trứng cá nước lạnh |
Theo Tổng cục Thủy sản, trong giai đoạn 2021-2030, sẽ khai thác, sử dụng hiệu quả tiềm năng mặt nước, nguồn nước lạnh để phát triển nuôi cá nhằm tạo sản phẩm có giá trị cao đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
Đặc biệt, phát triển cá nước lạnh theo hướng công nghiệp dựa trên việc kiểm soát chặt chẽ từ khâu sản xuất giống đến nuôi thương phẩm, chế biến và tiêu thụ. Ưu tiên đầu tư sản xuất ở những nơi có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và cơ sở hạ tầng thuận lợi, từng bước mở rộng sản xuất ở các vùng có tiềm năng khi có đủ điều kiện.
Mục tiêu đến năm 2030, sản lượng cá nước lạnh nuôi đáp ứng được 100% nhu cầu tiêu dùng trong nước và một số sản phẩm cá nước lạnh được xuất khẩu. Sản xuất được 100% nhu cầu giống đảm bảo chất lượng phục vụ nuôi thương phẩm và 100% nhu cầu thức ăn công nghiệp phục vụ nuôi cá nước lạnh.
Đáng chú ý, Tổng Cục Thủy sản đặt mục tiêu sản phẩm trứng cá nước lạnh đạt từ 5.000 kg đến 10.000 kg/năm, giá trị sản phẩm xuất khẩu đạt khoảng 20-25 triệu USD. Sản xuất được 100% nhu cầu giống đảm bảo chất lượng phục vụ nuôi thương phẩm; 100% nhu cầu thức ăn công nghiệp phục vụ nuôi cá nước lạnh được sản xuất trong nước. Đây là mục tiêu có tính khả thi khi hiện nay lượng cung trứng cá tầm từ các nước mới đạt khoảng 200 tấn/năm, đáp ứng được khoảng gần 10% tổng nhu cầu của thị trường thế giới.
Để đảm bảo phát triển cá nước lạnh mang lại hiệu quả cao, ổn định và bền vững trong giai đoạn tới, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến yêu cầu các địa phương cần tổ chức áp dụng quy trình sản xuất phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng để đảm bảo có hiệu quả; bảo vệ môi trường sinh thái và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Đa dạng hóa mô hình sản xuất, trong đó doanh nghiệp làm nòng cốt, khuyến khích các hình thức liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp và các hộ dân.