0981 389 194 ts.dautuvakinhdoanh@gmail.com

Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo Chiến lược sở hữu trí tuệ

Một trong các mục tiêu quan trọng của Chiến lược là “Hiệu quả thực thi pháp luật sở hữu trí tuệ được nâng cao rõ rệt, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ giảm đáng kể”.

Chiến lược Sở hữu trí tuệ đến năm 2030 (sau đây gọi tắt là “Chiến lược”) đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định số 1068/QĐ-TTg ngày 22 tháng 8 năm 2019. Một trong các mục tiêu quan trọng của Chiến lược là “Hiệu quả thực thi pháp luật sở hữu trí tuệ được nâng cao rõ rệt, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ giảm đáng kể”. Chiến lược đặt ra hàng loạt nhiệm vụ, giải pháp nhằm đạt được mục tiêu đó, từ các giải pháp về chính sách, pháp luật, về tổ chức bộ máy, về nguồn nhân lực… cho đến các hoạt động hỗ trợ. Bài viết này chỉ tập trung bàn về ba trong số các nhiệm vụ, giải pháp đó thông qua việc phân tích hiện trạng và đề xuất các biện pháp cụ thể để triển khai thực hiện. 

IP

1. Tinh giản đầu mối cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính

Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, Tòa án, Thanh tra chuyên ngành, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, trong đó, việc áp dụng biện pháp hành chính thuộc thẩm quyền của các cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, Ủy ban nhân dân các cấp. 

Hệ thống các cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ hiện nay bị coi là quá phức tạp, nhiều đầu mối và thiếu hiệu quả. Có cơ quan được trao thẩm quyền xử phạt hành chính nhưng thực tế không có điều kiện để tổ chức thực hiện (Ủy ban nhân dân cấp huyện); có cơ quan không xác định được trách nhiệm giữa thẩm quyền được trao thêm (thẩm quyền xử phạt hành chính) với nhiệm vụ theo chức năng thường xuyên (nhiệm vụ điều tra, xác minh của cơ quan công an). Trong khi đó, phạm vi thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan còn có sự trùng lặp, chồng chéo nhau, ví dụ, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý quy định tại Điều 12 và 13 của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP thuộc thẩm quyền xử phạt của cả 04 cơ quan là Thanh tra Khoa học và Công nghệ, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an; hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp nêu tại Điều 14 của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP thuộc thẩm quyền xử phạt của 03 cơ quan là Thanh tra Khoa học và Công nghệ, Quản lý thị trường, Hải quan. Năng lực của các cơ quan thực thi hành chính về cơ bản còn thiếu và yếu (cơ sở vật chất, kỹ thuật, thông tin và đội ngũ cán bộ); cơ quan thực thi hành chính ở một số địa phương chưa có lực lượng chuyên trách về sở hữu trí tuệ. Khi giải quyết các vụ tranh chấp, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nhiều trường hợp các cơ quan thực thi hành chính không thể chủ động mà còn phụ thuộc vào ý kiến giám định của tổ chức giám định hoặc ý kiến của cơ quan chuyên môn. Điều này khiến cho nhiều vụ việc bị kéo dài thời gian xử lý, chất lượng giải quyết chưa cao.

Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cần thiết phải thực hiện rà soát, đánh giá hiệu lực, hiệu quả và sự phù hợp của hệ thống tổ chức và cơ cấu bộ máy bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiện có để làm căn cứ xây dựng và thực hiện phương án sắp xếp, phân công lại trong bộ máy. Việc sắp xếp, phân công lại bộ máy các cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính cần đảm bảo theo hướng thu gọn đầu mối, phù hợp với tính chất dân sự của quyền sở hữu trí tuệ, xóa bỏ tình trạng hành chính hóa các quan hệ dân sự về sở hữu trí tuệ cũng như sự chồng chéo về thẩm quyền xử phạt hành chính. 

Việc thu gọn đầu mối cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính cần được thực hiện đồng thời với việc phân định rõ thẩm quyền của mỗi cơ quan và tăng cường chất lượng hoạt động trên cơ sở thực hiện chuyên môn hóa về tổ chức và nhân sự trong các cơ quan này.

Ngoài ra, cần thiết lập cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin, chuyên môn giữa cơ quan xác lập quyền với các cơ quan bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và giữa các cơ quan bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ với nhau nhằm tạo sự nhất quán trong nhận định và cách thức xử lý các vụ việc có cùng bản chất. Các cơ quan bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng cần công bố công khai các vụ việc được xử lý, các trường hợp xâm phạm điển hình, qua đó, rút kinh nghiệm trong hoạt động của mỗi cơ quan.

2. Nâng cao hiệu quả thực hiện biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ

Kiểm soát hàng hóa xuất, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ tại biên giới đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc phát hiện, ngăn chặn hàng hoá giả mạo và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đưa vào thị trường trong nước. 

Các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam ký kết trong thời gian qua như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (Hiệp định EVFTA) cũng đặt ra những yêu cầu cao đối với biện pháp này. Ví dụ, Điều 18.76.5 Hiệp định CPTPP yêu cầu các nước thành viên quy định thẩm quyền chủ động tiến hành các biện pháp tại biên giới của cơ quan hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, tập kết để xuất khẩu hoặc nhập khẩu bị nghi ngờ là giả mạo nhãn hiệu hoặc sao lậu quyền tác giả. Điều 18.59 Hiệp định EVFTA yêu cầu cơ quan hải quan phải chủ động trong việc phát hiện và xác định hàng hoá nhập khẩu, xuất khẩu bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trên cơ sở các kỹ thuật phân tích rủi ro. Hiệp định này cũng yêu cầu cơ quan phải hợp tác với chủ thể quyền, bao gồm việc cho phép cung cấp thông tin để phân tích rủi ro.

Theo quy định hiện hành, thủ tục tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được áp dụng đối với tất cả các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Trong khi đó, Hiệp định TRIPS chỉ yêu cầu các nước thành viên áp dụng biện pháp này đối với hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và sao chép lậu quyền tác giả; thậm chí Hiệp định CPTPP cũng chỉ yêu cầu mở rộng áp dụng biện pháp này với hàng hóa mang nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn. Quy định áp dụng biện pháp này đối với các đối tượng như sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bí mật thương mại… không phù hợp với các biện pháp thực hiện tại biên giới vì việc xác định các yếu tố xâm phạm đối với những đối tượng nêu trên là tương đối khó và mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến quá trình lưu thông hàng hóa qua cửa khẩu, thậm chí trong một số trường hợp cơ quan hải quan tại cửa khẩu không đủ điều kiện để thực hiện. Hơn nữa, sau khi hàng hóa được thông quan, trường hợp có nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, các cơ quan bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong nội địa vẫn có thời gian và điều kiện để xác định các hành vi xâm phạm. Quy định hiện hành trong Luật Sở hữu trí tuệ vượt quá yêu cầu của Hiệp định TRIPS cũng như các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam cam kết, tạo gánh nặng không cần thiết cho cơ quan hải quan trong việc kiểm tra, giám sát hàng hoá xuất, nhập khẩu tại biên giới, trong khi đó, cơ quan hải quan hiện nay còn nhiều hạn chế về nguồn lực, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật cũng như nguồn nhân lực.

Do đó, để nâng cao hiệu quả kiểm soát hàng hóa xuất, nhập khẩu về sở hữu trí tuệ, cần sửa đổi quy định của Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng thu hẹp đối tượng hàng hoá về sở hữu trí tuệ bị kiểm soát tại biên giới. Kiểm soát về sở hữu trí tuệ tại biên giới chỉ nên áp dụng đối với hàng hoá bị nghi ngờ giả mạo về sở hữu trí tuệ và hàng hoá xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu.

Luật Sở hữu trí tuệ cũng cần bổ sung thẩm quyền chủ động tạm dừng làm thủ tục hải quan của cơ quan hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu bị nghi ngờ giả mạo về sở hữu trí tuệ để đáp ứng cam kết theo Hiệp định CPTPP. Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực của cơ quan hải quan trong việc nhận biết hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ và hàng hoá xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Chỉ khi năng lực của cán bộ cơ quan hải quan được nâng cao, việc bổ sung thẩm quyền chủ động tạm dừng làm thủ tục hải quan mới phát huy hiệu quả. 

3. Thúc đẩy phát triển dịch vụ giám định sở hữu công nghiệp, đội ngũ giám định viên sở hữu công nghiệp

Giám định sở hữu công nghiệp là một khâu quan trọng để xác định hành vi, tính chất, mức độ xâm phạm và xác định thiệt hại trong quá trình xử lý các vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.

Mặc dù các văn bản pháp luật quy định về hoạt động giám định đã tương đối đầy đủ song trên thực tế, hiện nay, mới chỉ có 01 tổ chức giám định được thành lập (Viện Khoa học sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ) và cũng chỉ có 04 người được công nhận là giám định viên sở hữu công nghiệp, trong đó, 02 người đang “hoạt động trong tổ chức giám định, dưới danh nghĩa của tổ chức” (Viện Khoa học sở hữu trí tuệ), 02 người còn lại “hoạt động độc lập”. Việc chỉ có một tổ chức giám định duy nhất là Viện Khoa học sở hữu trí tuệ khiến cho, về mặt thị trường, tồn tại trạng thái độc quyền cung ứng dịch vụ giám định, từ đó không tạo điều kiện để thực hiện cơ chế kiểm soát, phản biện kết luận giám định và không thực hiện được việc giám định lại đối với các kết luận giám định được coi là không thỏa đáng.

Thực trạng nêu trên xuất phát từ việc tổ chức kiểm tra nghiệp vụ sở hữu công nghiệp để cấp thẻ giám định viên, một yêu cầu bắt buộc cho việc thành lập tổ chức giám định, chưa được thực hiện. Các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ về các chuyên ngành giám định quá rộng, không phù hợp với các lĩnh vực chuyên môn thực tế của đội ngũ chuyên gia, vì vậy, khó có thể có những chuyên gia đáp ứng được yêu cầu để được cấp Thẻ giám định viên.

Để tăng cường hiệu quả của hoạt động giám định, cần nghiên cứu, xây dựng khung chương trình đào tạo và sát hạch nghiệp vụ giám định sở hữu công nghiệp; và có cơ chế để huy động những người có trình độ chuyên môn sâu nhờ kinh nghiệm công tác vào đội ngũ giám định viên sở hữu công nghiệp, ví dụ, bổ sung điều kiện được đặc cách cấp thẻ giám định viên đối với người đã qua thực tế hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực pháp luật về sở hữu trí tuệ và lĩnh vực chuyên ngành giám định từ 15 năm trở lên.

Thực tiễn phát triển hệ thống sở hữu trí tuệ của Việt Nam nhiều năm qua cho thấy, để bảo hộ và thực thi hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ, cần thực hiện một cách đồng bộ và thống nhất hàng loạt các biện pháp và đòi hỏi sự tham gia tích cực của tất cả các chủ thể, từ các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương, đến các tổ chức, doanh nghiệp và mọi cá nhân trong xã hội. Bảo hộ và thực thi hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích hoạt động đổi mới sáng tạo, góp phần đảm bảo một nền thương mại bình đẳng dựa trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, thu hút đầu tư và đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Theo Tạp chí Sở hữu trí tuệ và Sáng tạo

Bạn đang đọc bài viết Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo Chiến lược sở hữu trí tuệ. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0981 389 194 Hoặc email: ts.dautuvakinhdoanh@gmail.com

Tin mới